Đi Đền Thờ Ông Hoàng Mười Ở Hà Nội

Đi Đền Thờ Ông Hoàng Mười Ở Hà Nội

Đầu năm lễ cầu, cuối năm lễ tạ. Các đình, chùa, đền miếu, đền cô, đền cậu các nơi luôn nhộn nhịp người sắm lễ từ các nơi đổ về. Mỗi người có một mục đích, lý do riêng. Có thể đến cầu một điều may mắn trong cuộc sống, có thể đến cầu cho tai qua nạn khỏi, có thể đến tạ ơn vì đạt ước nguyện, cũng có thể chỉ đến diện thánh hoặc du xuân vãn cảnh…

Đền thờ ông Hoàng Mười luôn là địa điểm được lựa chọn khá là nhiều. Vậy Ông Hoàng Mười là ai? đi đền thờ ông Hoàng Mười ở Hà Nội thế nào? Sắm lễ đi đền ông Hoàng Mười, văn khấn, những ai nên đến đền ông Hoàng Mười?

  1. Tìm hiểu về Thập Vị Quan Hoàng:

    Tứ phủ Quan Hoàng còn gọi là Thập vị quan Hoàng bởi Tứ phủ Quan Hoàng gồm có mười vị Quan Hoàng. Thập vị Quan Hoàng là các hoàng tử được quy về làm con Đức Vua cha Bát Hải Động Đình, đều hầu vua cha ở đền Đồng Bằng.

 Thánh ông Hoàng Cả

  • Tên húy của Ngài:  Đoàn Thượng 
  • Sắc phong tước hiệu: Đông hải Đại vương.
  • Đền thờ chính:  Ở Lý Nhân, Nam Hà nhưng đã bị phá, nay được thờ phối hương với đền thờ bà Vũ Nương và ở đền Trung suối Mỡ (Bắc Giang)
  • Thân thế:  Là con của vua cha Bát Hải Động Đình, là cả trong Tứ phủ Ông Hoàng, giáng sinh đầu tiên. Sau
  • đó, lên cõi thượng thiên coi giữ sổ sách.

Thánh ông Hoàng Đôi

  • Tên húy của Ngài:  Nguyễn Hoàng Triệu.
  • Sắc phong tước hiệu:  Thượng Đẳng thần.
  • Đền thờ chính:   Thanh Hóa (đền ông Hoàng Triệu), ở Hà Nội (đền Hoàng ở Chèm).

Thánh ông Hoàng Bơ

  • Tên húy của Ngài: Tống Khắc Bính, là thái tử con vua Nam Tống
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ chính: Đền thờ Ngài ở Thanh Hóa gần đền cô Tám. Đền thờ chính của Ngài là ở trên núi nhìn ra biển ở cửa Cờn, ngày nay người ta chuyển thành thờ ông Hoàng Chín, Đền Hưng long và đang được hưng công tại Thái Bình.

Thánh ông Hoàng Tư

  • Tên húy của Ngài:  Nguyễn Hữu Cầu.
  • Sắc phong tước hiệu:  Thượng Đẳng Thần, Thủy Cung hoàng tử.
  • Đền thờ chính: Đồ Sơn. Nhân dân thường gọi là miếu Thủy thần.

Thánh ông Hoàng Năm

  • Tên húy của ngài:   Hoàng Công Chất.
  • Sắc phong tước hiệu:  Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ chính:  Điện Biên

Thánh ông Hoàng Sáu

  • Tên húy Ngài là: Chưa rõ
  • Sắc phong tước hiệu:  Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ Ngài: Phố Lu

Thánh ông Hoàng Bảy

  • Tên húy của Ngài:  Nguyễn Hoàng Bảy.
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
  • Đền thờ Ngài:  Bảo Hà, Lào Cai.

Thánh ông Hoàng Tám

  • Tên húy Ngài:  Nùng Chí Cao
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Đại Vương.
  • Đền thờ Ngài:  Cao Bằng (đền Kỳ Sầm).

Thánh ông Hoàng Chín
        Tên húy của Ngài: Chưa rõ 
        Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.
        Đền thờ của Ngài:  Ở phía đảo ngoài biển Cờn.

Thánh ông Hoàng Mười
       Tên húy Ngài: Nguyễn Xí
       Sắc phong: 
       Đền thờ chính: Hà Tĩnh, Nghệ an
       Thân thế:   Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An.

Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời.

Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản. Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh.
Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”, là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt Nam.
        Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà).

Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế.

Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam.

Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông.

Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời. Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An.

Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn). Không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương.

Không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).

Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.
Đền thờ Ông Hoàng Mười là Đền Chợ Củi, chính là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (cũng chính là nơi quê nhà của Ông Mười). Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách … để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông. 

 
 

2. Người có căn ông Hoàng Mười:

Người có căn đồng, ứng và giá nào, như giá cô Bé, cô Chín, ông Hoàng 7, ông Hoàng 10., đồng Bói… sẽ có những tính cách tương đương với tính cách những nhân vật ấy trong truyền thuyết.
Khi người đó đến điện thánh, hay xem 1 giá hầu sẽ rất say mê, gần như là u mê và nhảy nhót hay khóc lóc theo giá đồng đó. Người ta gọi là ” thánh nhập”, hay ” cô nhập”, ” cậu nhập”…
Thật ra việc có ” căn đồng” cũng còn là 1 điều bí ẩn trong việc thờ cúng ở Việt Nam. Nhưng nghi lễ này đến nay được thừa nhận là có giá trị văn hóa cao, thuần Việt nhất, không bị lai tạp với Trung Cộng.
Như trong Tam tòa thánh mẫu thì Đệ nhất Thánh Mẫu chín là công chúa Liễu Hạnh. Hay các ngôi Thánh thì trong đó cũng có Đức Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười đều có truyền thuyết là các hoàng tử thời Lý Trần có thật trong lịch sử Việt Nam.
Ông Hoàng Bảy trấn giữ biên cương phía Bắc, được thờ cúng chính thức ở đền Bảo hà- lào Cai . Ông Hoàng Mười thì ở Nghệ An…..
Và các ngôi ” Cô” trong nghi lễ hầu Đồng cũng đều có tên tuổi và số phận trong lịch sử tại các vùng như Hòa Bình, Kinh Bắc, miền núi phía Bắc…
Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng.

Khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương, có đường quan độ sáng láng, thường đỗ đạt làm quan to.

Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ.

Có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông.

3. Đi đền ông Hoàng Mười Cầu Gì?

Theo quan niệm của giới hầu đồng thì quan Hoàng Mười là vị thánh chuyên ban lộc cho phát về công danh sự nghiệp. Chính vì thế, ai cũng muốn đến xin lộc ông vào mỗi dịp đầu năm.

Ông Hoàng Mười thường độ cho các con nhang đệ tử về khoẻ mạnh, học hành, công việc, công danh, bình an. Đặc biệt là cầu công danh sự nghiệp thăng tiến, thuận lợi, phát tài phát lộc, mọi việc suôn sẻ.

4. Sắm lễ đi đền ông Hoàng Mười:

Thông thường sắm lễ đền ông Hoàng Mười khá là đầy đủ mặn ngọt.

1 mâm xôi, gà, 1 chai rượu (5 chén), 1 chai nước, tiền dương, nén nhang.

1 mâm sớ điệp, cau, trầu, tiền quan, tiền dương.

1 mâm vàng quan màu vàng 5 dây

1. Mâm 1 dây vàng trắng, 1 chai rượu, 5 chén rượu, tiền vàng, nén nhang, tiền dương, 1 đĩa muối, 1 đĩa gạo, 5 quả trứng vịt (đã rửasạch), 1 bó hoa để ban thờ Quan Ngũ Hổ).

1 mâm hoa, quả, cau, trầu, tiền dương, chai nước…

5. Văn khấn đền ông Hoàng Mười:

Khi thỉnh Ông Mười, văn hay hát rằng:

“Ông Mười trấn thủ Nghệ An 
Về huyện Thiên Bản làm quan Phủ Dày”

Hay nói về tài đức của ông cũng có đoạn (cả trong hát văn và những câu hò xứ Nghệ):

 “Gươm thiêng chống đất chỉ trời 
Đánh Đông dẹp Bắc việc ngoài binh nhung 
Hai vai nặng gánh cương thường 
Sông Lam sóng cả buồm giương một chèo” 
“Đất Nghệ An anh hùng hào kiệt 
Tiếng Ông Mười lẫm liệt ngàn xưa 
Cung gươm lên ngựa đề cờ 
Ra tay gìn giữ cõi bờ Việt Nam” 
“Chí anh hùng ra tay cứu nước 
Đi tới đâu giặc bước lui ngay 
Việt Nam ghi chép sử dày 
Cung cao điện ngọc đêm ngày khói nhang” 
“Năm cửa ô tới Đô Thành 
Nam Đàn, Nghi Lộc nức danh Ông Mười”

Rồi có cả đoạn thơ hát khi Ông Hoàng Mười “tái đáo Thiên Thai”:

“Hoa đào rơi rắc lối Thiên Thai 
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi 
Ngõ hạnh suối đào xa cách mãi 
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng soi 
Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi 
Ước cũ duyên xưa có thế thôi”

Hay khi dâng ông miếng trầu têm, văn thường hát:

“Đất lề quê thói Nghệ An 
Miếng trầu cau đậu dâng Quan Hoàng Mười”

Và có cả khi văn tấu điệu hò Nghệ Tĩnh để ông vỗ gối ban thưởng:

“Muối đã mặn ba năm còn mặn 
Gừng đã cay chín tháng vẫn cay 
Ghế ông tình nặng nghĩa dày 
Xa xôi đến mấy, ra đây ngự đồng” 
“Xứ Nghệ vui nhất Chợ Vinh 
Đẹp nhất Bến Thủy, anh linh Ông Mười”

Văn khấn ban Công Đồng thường dùng:

– Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương

– Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế

– Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu

– Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh

– Con lạy Tứ phủ Khâm sai

– Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô

– Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu

– Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.

– Con lạy quan Chầu gia.

Hương tử con là:…………………………………….Tuổi…………………..

Cùng đồng gia đại tiểu đẳng, nam nữ tử tôn

Ngụ tại:……………………………………………………….

Hôm nay là ngày…… tháng…… năm………………(Âm lịch). Tín chủ con về Đền…………… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.

Phục duy cẩn cáo!

6. Đi đền ông Hoàng Mười ở Hà Nội, đền ông Hoàng Mười Hưng Nguyên Nghệ An:

Ơ Hà Nội có nhiều điện lễ bái, hầu đồng ông Bảy, ông Mười, cô Bơ, cô Chín… Nhưng tất cả đều là điện nhỏ gia đình, cá nhân tự phát hoặc theo căn mà mở đồng.

Cũng như các phủ, điện, đền quan hoàng khác đều có đền thờ chính tại một địa điểm riêng. Đền ông Hoàng Mười có đền thờ chính tại Hưng Nguyên – Nghệ An, và 1 đền thờ khác tại Nghi Xuân – Hà Tĩnh. 2 đền thờ nằm 2 phía của sông Lam.

Đền ông Hoàng Mười tại làng Xuân Am, xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An (còn được gọi là Mỏ Hạc Linh Từ hay Đền Xuân Am) được xây dựng vào thế kỉ 17, dưới thời hậu Lê.

Tại đền còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý, đặc biệt là 21 đạo sắc, bản thần tích chữ Hán và hệ thống tượng pháp có giá trị lịch sử và thẩm mỹ cao. Hiện nay, đền có các công trình kiến trúc: tam quan, tắc môn, đài trung thiên, lầu cô, lầu cậu, sân đền, nhà khách, tòa Hạ điện, Trung điện, Thượng điện, khu vực miếu mộ.

Đức Thánh Hoàng Mười được biết đến như một nhân vật quan trọng trong hệ thống thần điện tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ của người Việt đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2016.

Trước đó, năm 2002, đền ông Hoàng Mười ở Hưng Nguyên được Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Năm 2004, đền được tu bổ đảm bảo tính thẩm mĩ và hài hòa khu di tích.

Đền Củi tại Nghi Xuân – Hà Tĩnh có gần 20 ban thờ, trong đó những ban thờ lớn như: cung thờ Thánh mẫu, ban thờ Ngũ Vị Tôn Ông, ban thờ quan Hoàng Mười, ban thờ nhà Trần, ban thờ cô Chín, ban thờ Chầu Mười… 

Hai ngôi đền chỉ cách nhau 2km bởi dòng sông Lam, đứng ở đền này có thể nhìn thấy đền bên kia. Nếu đi theo đường bộ (quốc lộ 1A) thì 2 ngôi đền cách nhau khoảng gần 10 km.

Đền Củi được dựng vào cuối thời Lê, cung cấm là nơi thờ Tam tòa Thánh Mẫu, cung thờ Hoàng Mười ở ngoài, bức Đại tự trước Hạ điện cũng đề rõ “Thánh Mẫu linh từ”. Gắn với nơi đây là truyền thuyết về nhân vật Lê Khôi — vị tướng tài có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược thế kỷ 15. Sau khi ông mất, nhân dân đã lập đền thờ tại xã Thạch Bàn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh và đưa ông vào phối thờ tại đền Củi”.

Lễ hội Ông Hoàng Mười:

Phần lễ:

– Sáng 14/3 âm lịch: Lễ yết cáo

– Tối 14/3 âm lịch: Lễ đại tế

– Sáng 15/3 âm lịch: Lễ dâng hương

– Tối 15/3 âm lịch: Lễ yết cáo

-Tối 09/10 âm lịch: Lễ đại tế

– Sáng 10/10 âm lịch: Lễ tưởng niệm, dâng hương

– Tối 10/10 âm lịch: Lễ tạ

Phần hội:

– Chiều 14/3 và chiều ngày 9/10 âm lịch: rước sắc từ nhà thờ họ Nguyễn ra đền

– Chiều 15/3 và chiều ngày 10/10 âm lịch: hát chầu văn, thi chọi gà, đánh cờ người

– Sáng 16/3 và chiều ngày 11/10 âm lịch: rước sắc bằng thuyền từ đền về nhà thờ họ Nguyễn tại làng Xuân Am.

Đi lễ đền ông Hoàng Mười từ Hà Nội:

Đi lễ ông Hoàng từ Hà Nội có thể đi về ngay trong ngày nhưng khá là mệt. Nếu có thể nên sắp xếp đi ít nhất 2 ngày 1 đêm. Hành trình đi lễ có thể ghé cả 2 đền tại Nghệ An và Hà Tĩnh vì theo quốc lộ cách nhau không xa rất tiện đường.

Tại thành phố Vinh nằm giữa có rất nhiều nhà nghỉ, khách sạn, dịch vụ ăn uống rẻ và nhiệt tình.

Quanh khu vực đó bán kính 20km còn có bãi biển cửa Lò, làng Sen quê Bác, núi Quyết thăm mộ bà Hoàng thị Loan… Có thể kết hợp đi lễ và tham quan du lịch rất hợp lý.

Từ Hà Nội, nếu đi xe khách có thể đi xe từ bến xe Nước Ngầm hoặc bến xe Mỹ Đình. Bắt xe chạy thẳng về bến xe Vinh, sau đó đi đến đền khoảng 10km bằng taxi, xe ôm…

Nếu đi xe cá nhân có thể chạy thẳng cao tốc Pháp Vân đi QL 1A hoặc đi Đại Lộ Thăng Long đường mòn Hồ Chí Minh. Từ Hà Nội bằng 2 đường đều có khoàng cách tầm 300km, hiện nay chỉ mất khoảng 5h đồng hồ đi xe.

Chúc quý khách 1 chuyến hành hương lễ bái như ý.

==> Xem ngay các vật phẩm cung tiến đình chùa, đền miếu ý nghĩa được lựa chọn nhiều nhất tại đây

Facebook